Đề 1: Anh (chị) hãy phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu
I/Mở bài:
- Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
- Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
II/Thân bài :
* Nhận xét chung :
Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hoà quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng.
Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt.
1/Hai câu đầu :
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:
Ta về, mình có nhớ ta
Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Vả lại, hoa và người hoà quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp, gần gũi.
2/ Tám câu thơ sau :
- Nhận xét :
Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn:
- Bức tranh thứ nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ ( Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa; Nguyễn Du ) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động.
Thơ ca là một nghê thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.
- Bức tranh thứ hai
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Khác bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng
Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ:
…Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc (1). Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh co gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng” (2). Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.
- Bức tranh thứ ba
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh ( ve kêu ), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thi đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ấy hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.
- Bức tranh thứ tư
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:
Rừng xanh => không gian
Ngày xuân => thời gian
Ve kêu => âm thanh ( thời gian )
Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng.
Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc đời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát như thế.
- Đánh giá :
Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, nguời ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ ( 5 từ ) trong một khổ thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt.
III/ Kết bài
- Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ.
- Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.
Đề 2: Cảm nhận vẻ đẹp bộ tranh tứ bình Việt Bắc qua đoạn thơ: “Ta về mình có nhớ ta…ân tình thuỷ chung” (Việt Bắc-Tố Hữu). Nhận xét về tính dân tộc được thể hiện trong đoạn thơ.
I. MỞ BÀI
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Nêu nội dung khái quát
2. Nội dung cảm nhận
2.1. Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật – “ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình – ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. “Ta – mình” còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hay “Mình về mình nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Ths Phan Danh Hiếu. Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ nhân xưng “mình – ta” cũng như sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình.
Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu thơ đầy ắp những “ta”, “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp điệp từ “ta” với âm “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: trong tâm hồn người ra đi thì ký ức còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây. Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.
2.2. Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Thế giới mùa đông thường gặp trong thơ ca kim cổ là thế giới của sự lạnh lẽo, u ám, buồn tẻ. Nhà thơ Việt Phương ghi lại những cảm nhận của mình thật tinh tế về mùa đông ấy như thế này:
“Mùa đông lạnh gió lùa qua khe cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Có ai về tôi gửi áo len cho”
(Nhớ mùa đông Hà Nội)
Nhưng thế giới mùa đông trong thơ Tố Hữu thì lại khác. Việt Bắc mùa đông lại vô cùng sống động, tốt tươi. Hai sắc màu “xanh – đỏ” tương phản, đối lập mà lại rất đỗi hài hòa. Hai chữ “rừng xanh” truyền thẳng đến người đọc hình ảnh màu xanh bạt ngàn mà trầm tĩnh của đại ngàn. Cánh rừng ấy vẫn xanh màu xanh của sự sống chứ không phải là cánh rừng trơ cành, trụi lá, ảm đạm rét mướt thường thấy trong thơ ca viết về mùa đông. Điểm xuyết trên nền xanh bát ngát, bao la của cánh rừng là màu “hoa chuối đỏ tươi” đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Trong nghệ thuật hội họa, xanh là gam màu lạnh; đỏ là gam màu nóng. Ở đây màu đỏ, lại là “đỏ tươi” khiến bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp, dạt dào sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng. Có nhà phê bình đã không tiếc lời ngợi ca: Tố Hữu giống như một nhà hội họa vậy, ông đã mang đến cho câu thơ một bức tranh sống động, hài hòa. Màu đỏ của hoa chuối giống như nét chấm phá trên thảm xanh của núi rừng. Từ xa nhìn tới, hoa chuối giống như những bó đuốc đỏ rực đang thắp sáng cả cánh rừng già làm bừng sáng cả mùa đông Việt Bắc.
Giữa bao la nắng gió, giữa vô cùng thiên địa, con người lao động vùng chiến khu xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Ấy là con người lên núi làm nương, phát rẫy, sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt, dáng hình, mà chớp lấy một khoảnh khắc rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng gài ở thắt lưng làm con người hiện lên như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Tư thế ấy là tư thế của con người làm chủ: làm chủ tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
2.3. Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa Đông thơ mộng, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của hoa mơ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân là mùa của những loài hoa khoe sắc. Nếu người miền Nam đón xuân với sắc mai vàng rực rỡ, người Hà Nội rạo rực với sắc đỏ của hoa đào; thì Việt Bắc tự hào với sắc trắng của hoa mơ. Hoa mơ là linh hồn của mùa xuân nơi đây. Trong bài thơ “Theo chân bác”, Tố Hữu cũng đã từng viết về loài hoa ấy:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Và hôm nay, Việt Bắc lại vào xuân với “mơ nở trắng rừng”. Phép đảo ngữ “trắng rừng”, từ “trắng” là tính từ nhưng được dùng như động từ nên tạo ra cảm giác: cánh rừng như bừng sáng, nở rộ một màu trắng tinh khiết. Động từ “nở” nằm ở giữa câu, trước nó là sự định vị thời gian – “ngày xuân”; sau nó là định vị không gian – “trắng rừng”. Động từ “nở” và tính từ “trắng” kết hợp với nhau làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Hoa mơ như đang xòe ra, bung ra, mở ra – nở trắng cả thời gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”. Ths . Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, tinh khiết của hoa mơ. Màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng tạo nên bức tranh thơ lãng mạn mang đến cảm giác mơ màng, bâng khuâng.
Thấp thoáng dưới cánh rừng xuân thơm mát bởi sắc trắng dịu mát tinh khiết của hoa mơ là hình ảnh con người lao động với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón thủ công – một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: cần mẫn, cẩn thận, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút, trau chuốt… đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây. Màu nón trắng trên đôi tay tài hoa của người lao động hòa vào sắc trắng trong trẻo của hoa mơ dệt nên bức tranh xuân tràn trề nhựa sống. Ths
2.4. Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển sang màu vàng. Tài liệu thầy . Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim.
Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình” giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: “trúc xinh trúc mọc đầu đình – em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương yêu. Phép điệp phụ âm “m” trong ba chữ “măng – một – mình” đi liền nhau tạo nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng.
2.5. Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Động từ “rọi” rất gợi. Mùa thu có ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng cánh rừng, từng bản làng Việt Bắc. Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình: mình về Hà Nội rồi, sống trong cuộc sống hòa bình đừng quên những năm tháng chiến tranh, ăn một miếng ngon đừng quên những tháng ngày khốn khó; sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược. Hãy luôn nhớ về cội nguồn kháng chiến – nơi núi rừng Việt Bắc mà ta đã cùng nhau đi qua bao cay đắng ngọt bùi. Có thể nói, bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
3. Đánh giá nhận xét:
– Về nội dung: đoạn thơ là bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bức tranh thơ lãng mạn hài hòa, giàu sức sống. Mỗi bộ tranh là một thế giới sắc màu đẹp đẽ. Đoạn thơ mở đầu bằng mùa đông và kết thúc bằng mùa thu. Mùa đông là ẩn dụ cho buổi đầu của cách mạng với bao khó khăn, thử thách; mùa thu là mùa quả chín ngọt ngào gợi những âm vang chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và của trận Điện Biên – “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.
– Tính dân tộc trong đoạn thơ: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau đi làm nghĩa vụ. Phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện qua tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, đoạn thơ để lại vẻ đẹp của truyền thống dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn vô hạn của cách mạng dành cho nhân dân. Về hình thức nghệ thuật, thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Sử dụng nhiều động từ giàu sức gợi. Điệp từ “nhớ” biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (câu hỏi tu từ, liệt kê, ẩn dụ…). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.
III. KẾT BÀI
Post a Comment
Post a Comment